1. Khái niệm
Theo quy định của điều 150 LTM 2005, môi giới thương mại là “hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ và được hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới”.
Hoạt động cung ứng các hoạt động môi giới thương mại do một thương nhân thực hiện tạo nên một loại dịch vụ, đó là dịch vụ trung gian thương mại. Bên được môi giới cùng với dịch vụ môi giới này của mình có thể giúp tìm kiếm và cung cấp các thông tin cần thiết về đối tác cho bên được môi giới; tiến hành các hoạt động giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ cần môi giới; thu xếp để các bên được môi giới tiếp xúc với nhau, giúp đỡ các bên được môi giới soạn thảo văn bản hợp đồng khi học yêu cầu. Như vậy, với việc cung ứng dịch vụ môi giới thương mại của mình, bên môi giới có thể giúp các bên được môi giới ký kết hợp đồng với nhau.
Hơn nữa quan hệ môi giới thương mại được hình thành trên cơ sở hợp đồng môi giới thương mại. Do đó, hợp đồng môi giới thương mại có thể được hiểu là sự thỏa thuận của các bên, trong đó một bên là thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ và bên được môi giới có nghĩa vụ trả thù lao cho bên môi giới theo như thỏa thuận.
2. Đặc điểm.
Vì là một dạng của hợp đồng trung gian thương mại nên hợp đồng môi giới thương mại có đầy đủ những đặc điểm của dạng hợp đồng đó. Tuy vậy, hợp đồng môi giới thương mại cũng có những đặc điểm riêng.
- ØChủ thể của quan hệ môi giới thương mại được xác lập bởi hợp đồng môi giới thương mại gồm bên môi giới và bên được môi giới. Bên được môi giới phải là thương nhân đáp ứng đầy đủ các điều kiện được quy định tại điều 6 LTM 2005 để có thể được thực hiện dịch vụ môi giới thương mại và không nhất thiết phải có cùng ngành nghề đăng ký kinh doanh trùng với ngành nghề kinh doanh của bên được môi giới. Theo pháp luật hiện hành, bên được môi giới không xác định được có nhất thiết là thương nhân hay không. Khi thực hiện hoạt động môi giới thương mại với các bên, bên môi giới sử dụng danh nghĩa của mình.
- ØĐối tượng của hoạt động môi giới chính là công việc môi giới nhằm chắp nối quan hệ giữa các bên được môi giới với nhau.
3. Nội dung của hợp đồng môi giới thương mại.
a.Quyền và nghĩa vụ của bên môi giới.
*Nghĩa vụ của bên được môi giới được quy định tại điều 151 LM 2005, bao gồm:
- Bảo quản mẫu hàng hóa, tài kiệu được giao để thực hiện việc môi giới và phải hoàn trả cho bên được môi giới sau khi hoàn thành việc môi giới.
- Không được tiết lộ , cung cấp thông tin làm phương hại đến lợi ích của bên được môi giới.
- Chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của các bên được môi giới nưng không chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của họ.
- Không được tham gia thực hiện hợp đồng giữa các bên được môi giới trừ trường hợp có ủy quyền của bên được môi giới.
*Quyền của bên môi giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét